Những năm gần đây, điều trị bằng thuốc kháng vi-rút HIV (ARV) ngày càng được mở rộng và số người nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc ARV cũng tăng lên nhanh chóng.
Ngoài tác dụng giảm tỷ lệ mắc bệnh, giảm tử vong và cải thiện chất lượng cuộc sống của người nhiễm HIV, điều trị bằng thuốc ARV cũng đã được chứng minh là một biện pháp dự phòng nhiễm HIV hiệu quả, giúp giảm lây truyền HIV từ mẹ sang con, giảm lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục.
Những năm gần đây, điều trị bằng thuốc kháng vi-rút HIV (ARV) ngày càng được mở rộng và số người nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc ARV cũng tăng lên nhanh chóng. Ngoài tác dụng giảm tỷ lệ mắc bệnh, giảm tử vong và cải thiện chất lượng cuộc sống của người nhiễm HIV, điều trị bằng thuốc ARV cũng đã được chứng minh là một biện pháp dự phòng nhiễm HIV hiệu quả, giúp giảm lây truyền HIV từ mẹ sang con, giảm lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục.
Tư vấn cho người bệnh đang điều trị ARV tại Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Khánh Hòa. Nguồn nhandan.org.vn
Điều trị bằng thuốc ARV được triển khai tại Việt Nam từ năm 2000 và được mở rộng vào cuối năm 2005. Với nỗ lực từ Chính phủ và sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, thuốc ARV điều trị cho người nhiễm HIV hiện đang được cung cấp miễn phí.
Tính đến cuối tháng 9-2012, chương trình điều trị bằng thuốc ARV đã triển khai tại 63 tỉnh, thành phố, bao phủ trên 25% số huyện; số người nhiễm HIV đang được điều trị ARV trên toàn quốc là hơn 72 nghìn trường hợp, trong đó gần 69 nghìn người lớn và 3.828 trẻ em. Hiện nay, cả nước có 319 phòng khám, trung tâm phòng chống HIV/AIDS triển khai điều trị ARV, tăng gấp 26 lần so với cuối năm 2005. Thời gian tới, định hướng cung cấp dịch vụ điều trị bằng thuốc ARV tiếp tục được mở rộng và lồng ghép vào y tế cơ sở. Ngoài việc chú trọng mở rộng độ bao phủ về mặt địa lý, về tiêu chuẩn được điều trị bằng ARV cũng được thay đổi để người nhiễm HIV được tiếp cận sớm hơn với dịch vụ điều trị. Tổ chức Y tế thế giới cũng khuyến cáo cần mở rộng điều kiện để tăng số người nhiễm HIV được điều trị bằng ARV.
Điều trị bằng thuốc ARV được xem là một biện pháp dự phòng nhiễm HIV thông qua việc ức chế sự nhân lên của vi-rút HIV – yếu tố làm lây truyền HIV. Khái niệm điều trị bằng thuốc ARV là dự phòng đã được minh chứng qua hiệu quả đối với việc dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con và dự phòng nhiễm HIV qua quan hệ tình dục đối với các cặp bạn tình nhiễm HIV. Một nghiên cứu đa quốc gia được tiến hành vào năm 2010 đã chứng minh rằng điều trị bằng thuốc ARV sớm sẽ làm giảm 96% nguy cơ lây truyền HIV qua quan hệ tình dục. Nhiều nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng số người nhiễm mới HIV giảm mạnh khi mở rộng điều trị bằng thuốc ARV.
Bác sĩ Đỗ Thị Nhàn, Trưởng phòng chăm sóc và điều trị HIV/AIDS (Cục Phòng chống HIV/AIDS – Bộ Y tế) cho biết, với việc điều chỉnh tiêu chuẩn bắt đầu điều trị bằng ARV ở người nhiễm HIV là việc điều chỉnh thời gian bắt đầu điều trị dự phòng bằng ARV ở phụ nữ mang thai nhiễm HIV cũng được sớm hơn, thay vì điều trị dự phòng từ tuần thai thứ 28 bằng điều trị dự phòng từ tuần thai thứ 14. Với những chính sách mới của nước ta trong điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con đã làm giảm đáng kể số trẻ nhiễm HIV từ mẹ. Điển hình là hiệu quả can thiệp tại TP Hồ Chí Minh, tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con giảm dưới 5% từ năm 2010 và dưới 3% năm 2011. Như vậy, 100 bà mẹ nhiễm HIV sinh con thì chỉ còn ba trẻ bị nhiễm HIV từ mẹ, nếu không có sự can thiệp thì tỷ lệ này trung bình từ 35 đến 40%.
Theo TS Phạm Đức Mạnh, Phó Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế), mặc dù đạt được các thành công trên, nhưng hiện vẫn có nhiều vấn đề làm hạn chế hiệu quả của công tác điều trị bằng thuốc ARV, nhất là tình trạng người nhiễm HIV được chẩn đoán và điều trị muộn còn tương đối phổ biến. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi người nhiễm HIV điều trị bằng thuốc ARV càng muộn thì tỷ lệ tử vong càng cao. Cũng như vậy, nếu phụ nữ mang thai nhiễm HIV phát hiện muộn tình trạng nhiễm HIV, được điều trị bằng thuốc ARV ở giai đoạn muộn thì khả năng cứu con của họ khỏi nhiễm HIV sẽ giảm đi. Nhằm tăng cường hiệu quả của phương pháp điều trị bằng thuốc ARV, giảm tình trạng tử vong, giảm các trường hợp nhiễm HIV mới, tránh cho nhiều trẻ không bị nhiễm HIV từ mẹ, người nhiễm HIV cần đến đến các cơ sở y tế để được chăm sóc và điều trị ngay sau khi phát hiện tình trạng nhiễm HIV. Phụ nữ mang thai cần đến khám thai và xét nghiệm HIV sớm để phát hiện sớm tình trạng nhiễm HIV, tốt nhất là trong ba tháng đầu của thai kỳ.
Người nhiễm HIV cần đưa bạn tình của mình đến các cơ sở tư vấn xét nghiệm HIV, cơ sở điều trị và chăm sóc HIV để được tư vấn và chăm sóc điều trị phù hợp. Dịch vụ điều trị bằng thuốc ARV hiện đang được cung cấp miễn phí tại các cơ sở y tế điều trị và chăm sóc HIV/AIDS. Với tất cả các nỗ lực trên và các biện pháp can thiệp dự phòng khác, chúng ta tin rằng trong một tương lai không xa, Việt Nam sẽ đạt được tầm nhìn mà Liên hợp quốc hướng đến: Không còn người nhiễm mới HIV.
Theo báo cáo của Cục Phòng, chống HIV/AIDS, tính đến hết tháng 12-2013, số người nhiễm HIV là 216.254 trường hợp, chuyển sang AIDS là 66.533 trường hợp và có 68.977 trường hợp tử vong do AIDS. Tỷ lệ nhiễm HIV toàn quốc là 248 người trên 100 nghìn dân. Tỉnh Điện Biên vẫn là địa phương có tỷ lệ nhiễm HIV trên 100 nghìn dân cao nhất cả nước (1.029), TP Hồ Chí Minh (682), Thái Nguyên (632)… |